Thơ Hoàng Hạc Lâu Ra Đời Năm Nào

Thơ Hoàng Hạc Lâu Ra Đời Năm Nào

Hoàng Hạc Lâu từ lâu đã nổi tiếng là kiệt tác nghệ thuật cổ kính mà thơ mộng bậc nhất Trung Quốc, hàng năm nơi đây thu hút hàng triệu lượt du khách trong nước và quốc tế.

Ghé thăm Hoàng Hạc Lâu kiệt tác nghệ thuật đẹp thơ mộng từ thi văn ra ngoài đời

Vũ Hán là thành phố lớn nhất ở miền Trung Trung Quốc, nằm ở phía Nam sông Dương Tử và cách Thượng Hải khoảng 800km về phía Tây. Thành phố này không chỉ là trung tâm về kinh tế, thương mại mà còn là nơi hội tụ cả những kì quan tuyệt đẹp về thiên nhiên cũng như lịch sử đất nước Trung Hoa.

Đến Vũ Hán, du khách không thể bỏ qua Hoàng Hạc Lâu – Tam đại văn hóa danh lâu mà nhiều người biết đến trong án thơ của Thôi Hiệu (bài Hoàng Hạc Lâu) và Lý Bạch (bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng). Công trình này được xây dựng vào năm Hoàng Vũ thứ 2 của đời nhà Ngô thời Tam Quốc, tức là năm 223 dương lịch.

Hoàng Hạc Lâu là một trong ba công trình lầu tháp cổ nhất tại Trung Hoa

Với tuổi thọ gần 1.800 tuổi, Hoàng Hạc Lâu trở thành một trong ba công trình lầu tháp cổ nhất tại Trung Hoa. Nơi đây còn là thắng cảnh nổi tiếng gắn liền với trận Xích Bích, Khổng Minh mượn gió đông, Khuất Nguyên viết Ly tao, Tôn Quyền xem trận thế…trong thời Tam quốc diễn nghĩa.

Phiên bản Hoàng Hạc Lâu đầu tiên được xây dựng vào năm 223 sau công nguyên (dưới đời nhà Ngô thời Tam Quốc).

Cho đến nay, ngôi tháp đã bị phá hủy 12 lần do chiến tranh hoặc cháy nổ. Sau mỗi lần như vậy, người ta đều xây lại, mỗi lần lại cao hơn và nhiều tầng hơn. Phiên bản thứ 11 bị hủy năm 1884. Đến năm 1957, ghềnh Hoàng Hạc được dùng làm nơi xây cầu vượt sông Trường Giang (còn gọi là sông Dương Tử). Từ năm 1981-1985, Hoàng Hạc Lâu hiện tại được xây lại tại một vị trí mới cách đó 1km.

Hoàng Hạc Lâu gồm 5 tầng, mỗi tầng trưng bày nhiều hiện vật theo một chủ đề khác nhau. Tầng thứ nhất có bức bích họa bằng gốm sứ diện tích 54m2 mô tả cảnh tiên giới với mây, nước, tiên hạc…; tầng thứ ba trưng bày các bài thơ được làm trong nhiều triều đại ca ngợi vẻ đẹp của lầu Hoàng Hạc.

Trải qua nhiều biến cố lịch sử, ngôi lầu bị phá hủy và xây dựng lại rất nhiều lần. Năm 1981, lầu được trùng tu lại bằng vật liệu xây dựng hiện đại; trong lầu có cả thang máy cho phép du khách leo lên đỉnh tháp ngắm con sông Dương Tử cuồn cuộn chảy. Xung quanh lầu Hoàng Hạc có nhiều tượng hạc vàng bằng đồng và các ngôi đình nhỏ; trong đó có một ngôi đình treo quả chuông lớn cho du khách đánh thử. Hằng năm vào ngày Quốc khánh Trung Quốc (1-10), tại sân phía Tây của lầu Hoàng Hạc có lễ hội biểu diễn các điệu múa cung đình kéo dài 1 tuần.

Ngày này, Hoàng Hạc Lâu vẫn luôn là nơi thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Công trình này cũng là một biểu tượng tiêu biểu, thể hiện niềm tự hào về lịch sử cũng như nét đẹp kiến trúc đặc biệt đối với người dân Vũ Hán.

Gọi ngay 1900 1870 (miền Nam) hoặc 1900 2045 (miền Bắc) hoặc 1900 2087 (Miền Tây) để được tư vấn khách sạn Trung Quốc giá ưu đãi tốt nhất tại iVIVU.com

Gọi ngay 1900 1870 (miền Nam) hoặc 1900 2045 (miền Bắc) hoặc 1900 2087 (Miền Tây) để được tư vấn

giá ưu đãi tốt nhất tại iVIVU.com

Tham khảo: Cẩm nang du lịch iVIVU.com

Hoàng Hạc Lâu là bộ phim tái hiện vẻ đẹp làng quê Việt Nam vào năm 1955, ca ngợi lòng nhân hậu và đạo lý làm người. Nhân vật chính, Hồng Thắm, một cô gái mồ côi làm gia đinh trong nhà hội đồng Bùi, đã trải qua nhiều sóng gió trong tình yêu với Bùi Hiếu Hạc. Dù bị ngăn cấm và đối mặt với khó khăn, Hồng Thắm vẫn giữ lòng chung thủy và phụng dưỡng bà hội đồng khi bà gặp biến cố. Bên cạnh đó, phim còn xoay quanh những mâu thuẫn giữa các nhân vật phản diện và người lương thiện. Cuối cùng, những kẻ ác phải trả giá, còn hạnh phúc thuộc về những người biết sống đúng đạo lý. Phim nhẹ nhàng hướng thiện với thông điệp sâu sắc về tình yêu và lòng nhân ái.

Những sứ thần Việt Nam làm thơ về lầu Hoàng Hạc

Lầu Hoàng Hạc là “một di chỉ văn hóa, nơi kết duyên văn tự của thi nhân mọi thời”. Đây là một trong “Tứ đại danh lâu” của Trung Quốc, được Tôn Quyền xây năm 223 dưới thời Tam quốc, nay thuộc thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, trên vực đá Xà Sơn bên bờ sông Dương Tử.

Đến đời nhà Đường từ sự tích Phí Vân Vi cưỡi hạc về đây nghỉ nên có tên là Hoàng Hạc lâu. Lầu đã bị chiến tranh qua các thời phá hủy nên đã trải qua 12 lần tu sửa và lần gần đây nhất là từ năm 1981 - 1985. Năm 1957, Trung Quốc xây cầu qua sông Dương Tử nên lầu được dời về cách vị trí cũ 1km.

Thôi Hiệu, một nhà thơ đời Đường đã làm bài Hoàng Hạc lâu nổi tiếng, được xem là bài thơ hay nhất về lầu Hoàng Hạc mọi thời đại. Tương  truyền rằng Lý Bạch khi đến đây định làm thơ đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách. Đọc xong vị Thi tiên này vứt bút than rằng: “Trước mắt thấy cảnh không tả được vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu”.

Đã có 10 người Việt Nam, là những sứ thần thời phong kiến đi sứ sang Trung Hoa có thơ về lầu Hoàng Hạc. Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370, quê  Hưng Yên) là sứ thần đầu tiên có thơ. Năm 1314, ông đi sứ nhà Nguyên và viết bài Chơi lầu Hoàng Hạc. Phạm Sư Mạnh (1303 - 1384, quê Hải Dương), năm 1345, dưới thời nhà Trần, ông đi sứ và có bài Lên lầu Hoàng Hạc viết vội bài thơ cho Bắc sứ Thi giảng Dư Gia Tân. Lê Anh Tuấn (1671 - 1731, người Hà Nội) làm Chánh sứ sang nhà Thanh năm 1715, có bài Lên lầu Hoàng Hạc ngắm cây ở Hán Dương. Nguyễn Tông Khuê (1693 - 1767, người Thái Bình), năm 1742 làm Phó sứ, năm 1748 làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Trong tập Sứ Trình tân truyện dài 670 câu (thơ lục bát chen lẫn với thơ Đường bằng chữ Nôm) có dành 26 câu viết về lầu Hoàng Hạc.

Lê Quý Đôn (1726 - 1784), làm Phó sứ sang nhà Thanh năm 1761, khi đi qua Vũ Xương có làm bài Hoàng Hạc lâu để tặng quan Khâm sai nhà Thanh và quan Chánh sứ Trần Huy Bật. Trong bài ông khác với Thôi Hiệu là khi nhìn thấy khói sóng trên sông  lại… bớt nhớ nhà! (Yên ba giảm khước nhất phân sầu). Sứ đoàn  đông đảo của Tây Sơn đi sứ sang nhà Thanh năm 1790 có hai người làm thơ về lầu Hoàng Hạc. Chánh sứ Phan Huy Ích viết hai bài với nhan đề Chơi lầu Hoàng Hạc và Lại đến lầu Hoàng Hạc, Đoàn Nguyễn Tuấn lại viết một loạt 4 bài trong đó có một bài viết trên vách đá.

Thi hào Nguyễn Du năm 1813 đi sứ cũng viết bài Hoàng Hạc lâu trong đó có câu: “Cây cỏ trước mặt vẫn y như cũ”. Có nhà nghiên cứu cho rằng năm 1790, Nguyễn Du đã từng đi “giang hồ” qua đây. Ngô Thời Vỵ (1777 - 1821) đi sứ hai lần vào thời Gia Long (1807) và Minh Mạng (1821). Trong chuyến đi năm 1807 ông viết bài Đề Hoàng Hạc lâu. Bài này ông “chê” cả Thôi Hiệu lẫn Lý Bạch và “tự tin” với câu “Sứ thần nước Việt là Ngô Thì Vị chẳng sợ đề thơ nơi này”! Phan Thanh Giản (1796 - 1867, người Vĩnh Long) làm Chánh sứ năm 1834 có làm bài Đăng Hoàng Hạc lâu. Trong bài ông cho mình là người xa nhất ở phương Nam đến đây. Trong câu cuối bài thơ ông viết: “Du du trần mộng thập thu tâm” (nhặt chút lòng thu giấc mộng tràn). Đây là cách chơi chữ tuyệt vời vì “thu tâm” viết chung với nhau thành chữ “sầu”, để nhắc chữ “sầu” của Thôi Hiệu!

Hà Đình Nguyễn Thuật (1842 - 1912, người Hà Lam, Thăng Bình) đã hai lần đi sứ vào các năm 1880 và 1883. Đây là sứ thần cuối cùng của các triều đại phong kiến Việt Nam sang Trung Hoa. Ông cũng là sứ thần duy nhất người Quảng Nam, có thơ về ngôi lầu nổi tiếng này.

Đăng Hoàng Hạc lâu và Đề Hoàng Hạc lâu (trong Mỗi hoài ngâm thảo) là hai bài thơ tiêu biểu cho chùm thơ du lãm, du ký của Hà Đình Nguyễn Thuật.

Trần cảnh mang mang bất ký thuThiên hoang địa lão thặng tư lâuTiên ông hà xứ thừa vân hạcTra khách kim triêu thướng đẩu ngưuGiang khoát ngư long ba tiệm noãnXuân thâm anh vũ thảo do sầuĐăng lâm khước lạc Đường nhân hậuDoanh đắc kỳ quan viễn hải chu.

Trần thế mênh mang chẳng nhận biết được thời gianTrải qua thiên trường địa cửu, ngôi lầu vẫn còn đâyÔng tiên đã cưỡi hạc bay về nơi xa khuấtKhách dạo thiên hà nay tìm tới sao đẩu sao ngưuNgư long dưới sông sâu, song nước dần ấm lạiAnh vũ hót giữa xuân già, cỏ cây vẫn đang sầu muộnMặc dù lên đây sau người đời ĐườngNhưng được ngắm kỳ quan cảnh thuyền ngoài biển xa.

Ngọc địch thanh tàn nhất hạc phiGiang phong vô dạng nhập song xuyLinh hòa lại hưởng thiên gian ngữBa tịnh yên phù địa tản siCảnh đáo tình dư kham nhập họaBút tùng các hậu cánh vô thiBạch Vân dao chỉ tây nam ngoạiThủy biện nga phân khả đáng quy.

Tiếng sáo ngọc đã dứt, một cánh nhạn vút lên caoHàng phong nhàn rỗi đưa gió vào cửa sổĐiệu chuông điệu sáo vào như lời nói giữa khoảng khôngLàn sóng làn khói quyện mình nũng nịu cùng bến nướcCảnh vật đến khi quang đãng vẽ thành một bức tranhChỉ đám mây trắng bay xa ngoài cõi Tây NamMới nhớ ra rằng phải sớm trở về.

“Hoàng Hạc lâu dưới ngòi bút của Hà Đình đã hiện ra như một bức tranh thủy mặc thơ mộng. Người đọc có cảm giác rợn ngợp trước sự mênh mông của trời đất, sự trơ vắng của lầu Hoàng Hạc trước biến dịch của thời gian, sự cô đơn của con người trước kiếp sống hữu hạn” (Phạm Mạnh Hùng - Nguyễn Đông Triều - Theo dấu người xưa, Nxb Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh, trang 143). Lầu Hoàng Hạc qua thơ của Nguyễn Thuật không chỉ với cảnh hàng phong, làn sóng, bến nước với tiếng gió, tiếng sáo… - những cảnh ước lệ vốn có của cổ thi ở hầu hết những bài thơ viết về lầu Hoàng Hạc, mà còn cả “cảnh thuyền máy chạy bằng hơi nước của người Tây phương đậu nơi cửa biển” (Doanh đắc kỳ quan viễn hải chu) đã làm cho Đăng Hoàng Hạc lâu “không rơi vào khuôn sáo, không ngại thơ đề trên đầu” (Tuy Lý Vương).

Trong bài Đề Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu viết “Nhật mộ hương quan hà xứ thị. Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Quê hương khuất bóng hoàng hôn. Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai) thì Nguyễn Thuật lại viết: “Bạch Vân dao chỉ Tây Nam ngoại. Thủy biện nga phân khả đáng quy” (Chỉ đám mây trắng bay xa ngoài cõi Tây Nam. Mới nhớ ra rằng phải sớm trở về). Câu thơ cho thấy Nguyễn Thuật vừa “chìm” trong cảnh vừa “thức tỉnh” trước cảnh. Trong hoàn cảnh nào ông cũng luôn ý thức về trách nhiệm và hoàn cảnh của mình: một sứ thần, một người con của nước Việt!

Chính vì vậy, dù có nhiều người nổi tiếng viết về lầu Hoàng Hạc trước Nguyễn Thuật như vừa kể nhưng Nguyễn Thuật xứng đáng được khen ngợi “Sau Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, nào có mấy bài về lầu Hoàng Hạc không thẹn với thi tài Thôi Hiệu như bài này” (Mai Quốc Liên, Hai danh sĩ đất Quảng - Tạp chí Đất Quảng số 55 ngày 1.12.1988).

Đọc Đăng Hoàng Hạc lâu và Đề Hoàng Hạc lâu để thấy thơ Nguyễn Thuật vừa cũ vừa mới, vừa quen vừa lạ, thể hiện một tính cách Quảng đặc biệt.